Dải
Bollinger (Bollinger Bands)
Giới thiệu
Được
John Bollinger phát triển, Bollinger Bands là một công cụ cho phép người sử
dụng so sánh độ bất ổn định và các mức giá liên quan theo một khoảng thời gian.
Công cụ này bao gồm 03 đường được thiết kế để bao quanh phần lớn hoạt động của
giá một cổ phiếu.
- Một đường trung bình ở giữa
- Một đường bên trên (SMA cộng 2 standard deviations)
- Một đường bên dưới (SMA trừ 2 standard deviations)
- Xác định các khoảng thời gian độ biến động cao hoặc thấp
- Xác định các khoảng thời gian giá đang ở mức kháng cự hay hỗ trợ.
SMA
|
EMA
|
|
Ưu:
|
Hiển thị một đồ thị loại trừ các dấu hiệu giả
|
Biến động nhanh, tốt để hiển thị các đảo giá vừa xảy ra
|
Khuyết:
|
Biến đổi chậm, điều này có thể mang đến các báo hiệu mua
hoặc bán trễ
|
Dễ đưa ra các dấu hiệu giả hơn và đưa ra các báo hiệu sai
lầm.
|
- Một đừơng trung bình là cách làm phẳng hoạt động giá cả
- Có nhiều kiểu đường trung bình. Hai kiểu thông dụng nhất là SMA và EMA
- SMA là dạng đường trung bình đơn giản nhất, nhưng dễ bị ảnh hưởng (tổn thương) đối với các xung nhọn.
- Đừơng EMA đặt nặng đối với giá mới xảy ra và do đó chỉ cho chúng ta thấy những người giao dịch hiện đang làm gì.
- Biết được những người giao dịch hiện đang làm gì quan trọng hơn là biết họ đã làm gì tuần qua hoặc tháng qua.
- Các đường SMA phẳng hơn so với các đường EMA
- Các đường trung bình với số khoảng thời gian dài hơn thì phẳng hơn so với số khoảng thời gian ngắn
- Các đường trung bình nhấp nhô thì phản ánh hoạt động giá nhanh hơn và có thể nắm bắt các xu hướng sớm. Tuy nhiên, bởi vì chúng phản ánh nhanh nên chúng có thể dễ bị ảnh hưởng đối với các xung và có thể đánh lừa bạn.
- Các đường trung bình phẳng phản ánh hoạt động giá chậm hơn nhưng sẽ giúp bạn tránh các xung và không sai lầm. Tuy nhiên, bởi vì chúng phản ánh chậm nên có thể làm bạn giao dịch chậm và bỏ lỡ các cơ hội tốt.
- Cách tốt nhất để sử dụng các đường trung bình là vẽ nhiều kiểu khác nhau trên một đồ thị để bạn có thể thấy cả biến đổi theo khoảng thời gian dài và biến đổi theo khoảng thời gian ngắn.
- Đường Giá vượt lên đường SMA20
- Đường Giá vượt lên đường SMA50
- Đường SMA20 vượt lên SMA50 (tín hiệu dài hạn xác định xu hướng tăng trong dài hạn)
- Đường Giá vượt lên đường SMA20 và đường SMA20 vượt lên SMA50 (xu hướng tăng giá thể hiện rõ khi 3 đường chạm nhau và hướng lên)
- Đường Giá vượt xuống đường SMA20
- Đường Giá vượt xuống đường SMA50
- Đường SMA20 vượt xuống SMA50 (tín hiệu dài hạn xác định xu hướng giảm trong dài hạn)
- Đường Giá vượt xuống đường SMA20 và đường SMA20 vượt xuống SMA50 (xu hướng giảm giá thể hiện rõ khi 3 đường chạm nhau và hướng xuống)
- PSAR đảo chiều vượt dưới đường giá (tín hiệu mua)
- PSAR đảo chiều vượt trên đường giá (tín hiệu bán)
Sau khi xác định đỉnh cổ phiếu STB rớt hiệu mức hỗ trợ 23.6% và bật lên trên mức đỉnh cũ. Đến ngày 20/11/2009 STB vượt xuống mức hỗ trợ 23.6% khi đó mức hỗ trợ tiếp theo là 38.2% và mức 23.6% trở thành mức kháng cự.
Sau khi xác định được mức ĐỈNH và ĐÁY trong 1 khoảng thời gian, DÃY FIBONACCI sẽ xuất hiện tương ứng với các vị trí hỗ trợ, kháng cự 0%, 23.6%, 38.2, 50%, 61.8%, 100%...
- Fibonacci chỉ ra những mức hỗ trợ và kháng cự giúp xác định rõ hơn mức tăng hoặc giảm kế tiếp.
- Mức kháng cự sẽ trở thành mức hỗ trợ khi đường giá vượt lên mức kháng cự đó.
- Mức hỗ trợ sẽ trở thành mức kháng cự khi đường giá vượt xuống mức hỗ trợ đó.
- Chúng ta nên giao dịch tại những mức hỗ trợ/ kháng cự của Fibonacci
- 1. Đường MACD: EMA (12): Đường trung bình giá trong 12 phiên gần nhất Trừ EMA (26): Đường trung bình giá trong 26 phiên gần nhất
- 2. Đường tín hiệu MACD: là đường EMA (9) của đường MACD
- 3. Đường biểu đồ MACD: là MACD trừ đi đường tín hiệu MACD
Tín hiệu mua: Tín hiệu mua xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía trên đường zero.
Những tín hiệu cảnh báo này thường xuất hiện rất trễ. Nếu sử dụng sự giao cắt của đường tín hiệu và đường MACD thì tín hiệu mua bán sẽ xuất hiện sớm và nhanh hơn.
MACD và sự giao cắt của các đường trung bình là một trong những cách sử dụng kỹ thuật chỉ báo MACD. Sử dụng biểu đồ MACD và sự phân kỳ của MACD là 2 phương pháp quan trọng để đưa ra những cảnh báo đảo chiều.
Lưu ý: Biểu đồ MACD không chỉ cho ra các tín hiệu mua bán khá chắc chắn mà còn được sử dụng cho việc cảnh báo khả năng thay đổi hướng đi của đường giá.
- Khi
thị trường đang có xu hướng (Trending Market): nhà đầu tư có thể sử dụng
Moving Averages (MA), đường xu hướng (trendline) và một số các chỉ báo
tiếp tục xu hướng khác.
- Khi
thị trường đang không có xu hướng rõ ràng (sideways market) hay đang biến
động trong một phạm vi giá nào đó (trading range market): các nhà đầu tư có thể sử dụng
các chỉ báo như là Stochastic, RSI, hoặc Williams’%R và các báo
range-bound khác như là Bollinger Bands hoặc Moving Average Envelope.
- Moving Averages (MA): Đường trung bình MA và những biến thể của MA được sử dụng rất có hiệu quả với thị trường có xu hướng rõ ràng. Tuy nhiên trong giai đoạn thị trường đang co trạng thái củng cố xu hướng; có nghĩa là giá liên tục tăng giảm đan xen lẫn nhau thì đường MA có khuynh hướng cho ra nhiều tín hiệu mua và bán sẽ bị sai lệch.
- Oscillators: là một chỉ báo vô cùng hiệu quả khi thị trường không có xu hướng rõ ràng. Mua khi Oscillator thấp và bán khi nó cao là khái niệm khá đầy đủ khi sử dụng Oscillator. Nhưng khi thị trường đang trong một xu hướng thì Oscillator biểu thị ít chính xác hơn; có nghĩa là thường xảy ra những tín hiệu bán khi thị trường đang tăng mạnh (bull market) hoặc cho những tín hiệu mua khi thị trường đang giảm giá mạnh (bear market).
- Một xu hướng tăng giá mạnh đồng nghĩa với ADX tăng liên tục.
- Một xu hướng giảm giá mạnh đồng nghĩa với ADX tăng liên tục.
- Dưới 20: thị trường không có xu hướng.
- Tăng từ dưới lên trên 20: báo hiệu bắt đầu một xu hướng mới. Lúc này bắt đầu suy nghĩ đến việc mua hoặc bán trong xu hướng ngắn hạn hiện tại.
- Dao động giữa 20 – 40: Nếu ADX tăng theo hướng từ 20 lên 40; nó hàm ý xác nhận mạnh xu hướng mới đã hình thành trước đó và tiếp tục di chuyển theo hướng đã bắt đầu. Điều này có nghĩa là nhà đầu tư có thể sử dụng lệnh mua hoặc bán khống (short-sell) tuỳ theo hướng đi của xu hướng thị trường. Trong giai đoạn này, nhà đầu tư phải hạn chế sử dụng chỉ báo Oscillator và các chỉ báo tiếp tục xu hướng như là MA.
- Trên 40: xu hướng hiện tại là rất mạnh.
- Cắt lằn 50 theo hướng tăng: xu hướng cực kỳ mạnh.
- Cắt theo hướng tăng trên 70: Vô địch (power trend), điều này rất hiếm khi xảy ra.
3. Phân kỳ: Khi đường giá tăng nhưng đường stochastic giảm thì cho tín hiệu bán. Khi đường giá giảm mà đường stochastic tăng thì sẽ cho tín hiệu mua.
MFI - Chỉ báo đo dòng tiền
Lời nhận xét: nên bán khi MFI ở trên 80 điểm và mua khi MFI ở dưới 20 điểm hoặc bán khi MFI có tín hiệu đi xuông và mua khi MFI có dấu hiệu đi lên đối với các nhà lướt sóng ngắn hạn. Tuy nhiên cần xem xét thêm RSI, Momentum, ADX và PSAR và xu thế thị trường để xét đoán chính xác hơn.
CCI - Commodity Channel Index indicators
Ví dụ dưới đây chỉ báo CCI cho tín hiệu bán khi > +100 và tín hiệu mua khi <-100
- Nếu giá đóng cửa gần đây nhất càng gần với mức giá cao nhất của khoảng giá trong quá khứ thì đường Williams %R sẽ càng gần với cực trên của khoảng giao động.
- Ngược lại, nếu giá đóng cửa gần đây nhất gần đáy của khoảng giá trong quá khứ, đường Williams %R sẽ gần đáy của khoảng giao động.
Standard deviation là một đơn vị đo lường thống kê cung cấp sự đánh giá độ bất
ổn định của đồ thị giá. Sử dụng standard deviation đảm bảo các đường bollinger
sẽ đáp ứng nhanh với các biến động giá và phản hồi độ bất ổn định cao hay thấp.
Giá tăng hoặc giảm đột ngột sẽ tạo thành dãy băng rộng.
Sử dụng
Ngoài
việc xác định quan hệ giữa các mức giá và độ bất ổn định, đường Bollinger Bands
có thể kết hợp với biến động giá và các công cụ khác để đưa ra tín hiệu và dự
báo các biến động quan trọng.
Đường giá xuống dải Bollinger dưới: tín hiệu mua được hình thành khi
đường giá xuống và chạm dải Bollinger dưới thì khả năng bật lên lại của đường
giá sẽ có thể xuất hiện.
Đường giá lên dải Bollinger trên: tín hiệu bán được hình thành khi
đường giá lên và chạm dải Bollinger trên thì khả năng bật xuống lại của đường
giá sẽ có thể xuất hiện.
Double tín hiệu mua : một tín hiệu Double Bottom Buy được tạo thành
khi giá vượt qua đường bollinger dưới và nằm bên trên đường bollinger dưới sau
khi tạo tiếp mức giá thấp tiếp theo. Mức giá thấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn
so với mức giá thấp trước đó. Điều quan trọng là mức thấp thứ hai phải nằm trên
đường bollinger dưới. Giá chuyển sang xu hướng lên được xác định khi giá di
chuyển lên trên đường bollinger giữa.
Double tín hiệu bán : Một tín hiệu Double Top Sell được tạo thành khi giá vượt
qua đường bollinger trên và đỉnh của đợt tăng giá kế tiếp không vượt qua được
đường bollinger trên. Giá chuyển sang xu hướng xuống được xác định khi giá di
chuyển xuống bên dưới đường bollinger giữa.
Việc
thay đổi giá đột ngột có thể xảy ra sau khi dãy bollinger thu hẹp lại và sự bất
ổn định thấp. Trong ví dụ này, đường bollinger không đưa ra bất kỳ tín hiệu nào
về xu hướng của giá trong thời gian tới. Xu hướng phải được xác định bằng cách
sử dụng các công cụ phân tích kỹ thuật khác. Nhiều cổ phiếu chuyển sang biến
động mạnh sau một khoảng thời gian biến động ít. Việc sử dụng đường bollinger
có thể xác định mức độ biến động dễ dàng bằng quan sát đồ thị. Dãy băng hẹp cho
biết thị trường ít biến động và dãy băng rộng cho biết thị trường biến động
mạnh. Độ biến động có thể quan trọng với những người chơi “options” bởi vì giá
của “options” sẽ rẻ hơn khi độ biến động thấp.
Dải Bollinger thu hẹp: dãy băng bollinger thu hẹp trước khi có biến động mạnh
Kết luận
Mặc
dù đường Bollinger có thể giúp tạo các tín hiệu mua và bán, nhưng đường
bollinger không được thiết kế để xác định xu hướng trong tương lai. Đường
Bollinger được thiết kế để bổ sung cho việc phân tích kỹ thuật và các công cụ
khác. Bản thân đường Bollinger đáp ứng 02 chức năng chính :
Như
đã đề cập ở trên, giá cổ phiếu có thể chuyển đổi qua lại giữa biến động mạnh và
biến động thấp. Đường Bollinger có thể xác định khoảng thời gian biến động ít
do đó có thể đáp ứng vai trò một công cụ cảnh báo động thái của giá cổ phiếu.
Trong phân tích kỹ thuật, kết hợp cùng các công cụ khác, đường bollinger có thể
giúp xác định chiều của một biến động mạnh.
Hãy
nhớ rằng tín hiệu mua và bán không được đưa ra khi giá chạm đường bollinger
trên và dưới. Các mức này chỉ cho biết giá đang ở mức cao hoặc thấp trên một
nền tảng tương đối.
Đường trung
bình (Moving Averages)
Một
đường trung bình là cách làm phẳng hoạt động biến động giá theo thời gian.
Nghĩa là bạn lấy giá trị trung bình của giá đóng trong một khoảng thời gian
“x”.
Giống
như mọi công cụ, nó được sử dụng để hỗ trợ chúng ta tiên đoán giá trong tương
lai. Nhìn vào độ dốc của đường trung bình bạn có thể đoán giá sẽ biến đổi như
thế nào.
Như
tôi đã nói, đường trung bình làm phẳng hoạt động của giá. Có nhiều kiểu đường
trung bình khác nhau, và mỗi kiểu có các mức làm phẳng riêng. Nói chung, đường
trung bình phẳng hơn thì phản ánh sự biến động giá chậm hơn. Đường trung bình
nhấp nhô hơn thì phản ánh sự biến động giá nhanh hơn.
5.1 Đường trung bình đơn giản (Simple Moving Average - SMA)
Một
đường trung bình đơn giản là kiểu đường trung bình đơn giản nhất. Một cách cơ
bản, một đường trung bình đơn giản được tính bằng cách tính tổng các giá đóng
trong số khoảng thời gian “x” và chia cho “x”. Có lầm lẫn không? Cho phép tôi
giải thích. Nếu bạn vẽ một đường trung bình đơn giản cho số khoảng thời gian là
5 trên một biểu đồ 1 giờ, bạn sẽ cộng giá đóng của 5 giờ và chia cho 5 và như
vậy bạn có một đường trung bình đơn giản.
Nếu
bạn vẽ đường trung bình đơn giản cho khoảng thời gian là 5 trên một biểu đồ 10
phút, bạn sẽ cộng giá đóng của 50 phút và sau đó chia cho 5.
Hầu
hết các công cụ vẽ đồ thị sẽ thực hiện tất cả việc tính toán cho bạn. Chúng ta
phải biết cách tính toán một đường trung bình đơn giản bởi vì điều này quan
trọng để bạn hiểu các một đường trung bình được tính toán. Nếu bạn hiểu cách
mỗi đường trung bình được tính toán, bạn có thể đưa ra quyết định của riêng bạn
nên chọn kiểu nào thì tốt hơn.
Giống
như bất kỳ công cụ khác, các đường trung bình hoạt động như một bộ delay (làm
trễ). Bởi vì bạn đang lấy giá trị trung bình của giá, bạn thực sự chỉ đang xem
dự báo giá tương lai và không phải là một cái nhìn chắc chắn của tương lai.
Đây
là một ví dụ về cách các đường trung bình làm phẳng hoạt động giá cả. Trên đồ
thị trên, bạn có thể thấy 03 đường SMA khác nhau. Như bạn nhìn thấy, đường SMA
cho khoảng thời gian dài hơn là đường chậm trễ hơn so với giá. Chú ý rằng đường
62SMA cách xa hơn giá hiện thời so với các đường 30 và 5 SMA. Bởi vì với đường
62 SMA bạn tính tổng giá đóng của 62 khoảng thời gian và chia cho 62. Việc bạn
sử dụng số khoảng thời gian cao hơn làm việc phản ánh sự biến động giá chậm
hơn.
Đường
SMA trong đồ thị này hiển thị cho bạn cảm nhận chung về thị trường theo thời
gian. Thay vì chỉ nhìn vào giá hiện tại của thị trường, đường trung bình cho
chúng ta một các nhìn rộng hơn và chúng ta có thể đưa ra dự đoán giá tương
lai.
5.2 Đường trung bình lũy thừa (Exponential Moving Average -
EMA)
Mặc
dù đường SMA là một công cụ tuyệt vời nhưng có một điểm khuyết lớn. Đừơng SMA
rất dễ bị vô hiệu hóa. Hãy để tôi đưa một ví dụ về điều này :
Chúng
ta vẽ một đường SMA với thời gian là 5 trên đồ thị ngày của EUR/USD và các giá
đóng của 5 ngày vừa qua như sau :
Day
1: 1.2345
Day
2: 1.2350
Day
3: 1.2360
Day
4: 1.2365
Day
5: 1.2370
Đường
SMA sẽ được tính như sau : (1.2345+1.2350+1.2360+1.2365+1.2370)/5= 1.2358
Đủ
chính xác không? việc gì nếu giá ngày thứ 2 là 1.2300? Kết quả của đường SMA sẽ
thấp hơn một ít và điều này mang đến cho bạn ý nghĩ giá đang đi xuống,
trong khi đó thực tế ngày 2 có thể chỉ là một sự kiện tại một thời gian.
Với
điều này, tôi đang cố gắng nói rằng đôi khi đường SMA có thể quá đơn giản. Nếu
có một cách khác để bạn có thể loại bỏ xung nhọn để bạn sẽ không sai lầm. Có
một cách, nó được gọi là đường trung bình lũy thừa (EMA)
Đường
EMA chịu ảnh hưởng nhiều hơn đối với các khoảng thời gian mới nhất. Trong ví dụ
trên, đường EMA sẽ đặt nặng vào ngày 3 đến ngày 5, nghĩa là xung nhọn của ngày
2 sẽ ít giá trị hơn và sẽ không ảnh hưởng đường trung bình nhiều. Đường EMA chú
trọng hơn vào hành động hiện giờ của những người giao dịch.
Khi
giao dịch, nhìn xem những người giao dịch đang làm gì quan trọng hơn là xem họ
đã làm gì trong tuần qua hoặc tháng qua.
5.3 Cái nào tốt hơn : SMA hay EMA?
Trước
tiên hãy bắt đầu với một đường EMA. Khi bạn muốn một đường trung bình phản ánh
hoạt động giá nhanh hơn thì một đường EMA với số khoảng thời gian ngắn là cách
tốt nhất. Điều này có thể giúp bạn nắm bắt xu hướng giá rất sớm và kết quả là
lợi nhuận cao hơn.
Thực
vậy, bạn nắm bắt một xu hướng sớm hơn, bạn có thể giao dịch trên xu hướng đó
dài hơn và thu vào nhiều lợi nhuận! Mặt trái đối với một đường trung bình biến
động nhấp nhô là bạn có thể bị đánh lừa, bởi vì đường trung bình phản ánh quá
nhanh đối với giá cả và bạn có thể nghĩ rằng một xu hướng mới đang hình thành
nhưng thực tế nó có thể chỉ là một xung nhọn.
Với
một đường SMA, khi bạn muốn một đường trung bình phẳng hơn và phản ánh chậm hơn
hoạt động giá cả, thì một SMA với số khoảng thời gian dài hơn là cách tốt nhất.
Mặc dù nó chậm phản ánh hoạt động giá, nó sẽ giúp bạn không bị sai lầm. Mặt
trái là nó có thể làm bạn quá chậm và bạn có thể lỡ mất một cơ hội giao dịch
tốt.
Vậy
thì cái nào tốt hơn? Thật khó để bạn quyết định. Nhiều người giao dịch vẽ nhiều
đường trung bình khác nhau để có một cái nhìn tổng quát. Họ có thể sử dụng
đường SMA với số khoảng thời gian dài để tìm xu hướng bao quát và sau đó sử
dụng đường EMA với số khoảng thời gian ngắn để xác định thời điểm tốt để giao
dịch.
Thực
tế, nhiều hệ thống giao dịch được xây dựng dựa trên “Các giao chéo đừơng trung
bình”. Sau phần này, chúng ta sẽ xem một ví dụ về cách sử dụng các đường trung
bình như là một phần của hệ thống giao dịch.
Tóm tắt:
SỬ DỤNG
Tín hiệu mua: tín hiệu mua xảy ra khi đường ngắn hạn vượt lên đường dài hạn.
Chú
ý: nên bỏ qua những tín hiệu sai (không xác định xu hướng) khi 2 đường chạm
nhau lên xuống liên tục.
Double bottom (Mô hình
hai đáy)
Mô hình hai đáy hình thành khi
giá tạo thành hai điểm đáy liên tiếp trên cùng một đồ thị. Mô hình này chỉ hoàn
thiện khi giá tăng vượt qua điểm bắt đầu hình thành đáy thứ hai (tức là vượt
qua đường Neckline sau khi đã chạm đến đáy thứ hai). Mô hình hai đáy là thời kỳ
chuyển đổi xu thế giảm giá thành xu thế tăng giá, nó mang tính đảo chiều. Có
điều là mô hình này tương đối dễ nhận ra nên cũng rất dễ nhầm do đó nhà đầu tư
nên cẩn thận khi quyết định tham gia trong thời kỳ này. Thực tế thống kê cho
thấy nếu nhà đầu tư nóng vội tham gia ngay từ đầu thì xác xuất thất bại là 64%
còn nếu họ cố gắng đợi đến khi xuất hiện "breakout" (đảo chiều) thật
sự thì xác xuất thất bại chỉ còn 3%.
Để có thể nhận diện chính xác mô
hình, nhà đầu tư nên chú ý đến một số vấn đề: đáy thứ hai không nên xuống vượt
quá đáy thứ nhất; khoảng thời gian giữa hai đáy cũng là một dấu hiệu quan
trọng-thời gian càng dài thì độ chính xác càng cao-ít nhất phải là một tháng và
có thể kéo dài nhiều tháng.
Double top (Mô hình hai
đỉnh)
Mô hình hai đỉnh hình thành khi
đường biểu diễn sự biến động của giá vàng hình thành hai đỉnh trên
biểu đồ. Mô hình này chỉ hoàn thiện khi giá chứng vàng rơi xuống dưới
mức đáy (điểm dưới cùng của đáy) của toàn mô hình. Mô hình hai dỉnh là mô
hình thể hiện sự đảo ngược của xu hướng tăng giá vàng– nó đánh dấu quá trình
chuẩn bị cho xu hướng đi xuống của xu hướng tăng giá trong hiện tại (nó báo
hiệu cho một thị trường giảm giá). Vì đây là mô hình rất hay thường gặp và rất
dễ nhận ra nên khi nhận định về thị trường chúng ta nên xem xét một cách cẩn
then. Bolkowski ước tính mức thất bại của mô hình này là 65% nếu nhà đầu tư đợi
đến mức đột biến giá (Breakout) mới tiến hành giao dịch thì mức rủi ro giảm
xuống còn 17%.
PSAR
PSAR
là một chỉ số cho biết rất sớm (rất nhạy) sự xuất hiện của trend. Nhược điểm
của nó là chỉ báo up hay down. Nó không thể hiện tình trạng non-trend của thị
trường. Tiếc thay, trạng thái này lại chiếm thời lượng khá lớn.
PSAR
là một chỉ số cho biết rất sớm (rất nhạy) sự xuất hiện của trend. Nhược điểm
của nó là chỉ báo up hay down. Nó không thể hiện tình trạng non-trend của thị
trường. Tiếc thay, trạng thái này lại chiếm thời lượng khá lớn.
Vì
vậy, đã có rất nhiều bài viết về cách phối hợp ADX cùng với PSAR để sử dụng ưu
điểm của cả 2 chỉ số, loại bỏ nhược điểm của cả 2. John Murphy nổi tiếng cũng
đã từng gợi ý về cách dùng DMI (ADX, +/-DI) với PSAR. Tuy vậy, việc xác định
ranh giới giữa up, down và sideway vẫn còn rất mơ hồ, khó nắm bắt. (ADX và PSAR)
Chúng
ta phải luôn bám sát PSAR vì PSAR là nhạy nhất. Nó sẽ cảnh báo sự thay đổi của
trend đầu tiên.
Khi
PSAR đột ngột đảo chiều, câu hỏi là trend đã thực sự thay đổi chưa? Nếu đã, thì
là up (trong trường hợp đang down), down (trong trường hợp đang up) hay
sideway? Thường thì sau một trend, thị trường phải sideway, rồi mới chuyển sang
trend ngược lại, hoặc tiếp tục trend cũ. Vấn đề là sideway kéo dài bao
lâu? Có thể chỉ một vài phiên để retest, khẳng định mốc mới; có thể là lâu hơn.
DÃY SỐ
FIBONACCI - XÁC ĐỊNH MỨC KHÁNG CỰ / HỖ TRỢ
Dãy
số nổi tiếng của Fibonacci đã được ứng dụng phổ biến trong việc kinh doanh tài
chính. Fibonacci là công cụ sử dụng những tỷ lệ đặc biệt xảy ra trong tự nhiên
để giúp chúng ta dự báo hay đoán trước được các điểm hỗ trợ hay kháng cự.
Dãy
Fibonacci xuất hiện ở khắp nơi trong thiên nhiên. Những chiếc lá trên một nhành
cây mọc cách nhau những khoảng tương ứng với dãy số Fibonacci. Các số Fibonacci
xuất hiện trong những bông hoa. Hầu hết các bông hoa có số cánh hoa là một
trong các số: 3,5,8,13,21,34,55 hoặc 89. Hoa loa kèn có 3 cánh, hoa mao lương
vàng có 5 cánh, hoa phi yến thường có 8 cánh, hoa vạn cúc thọ có 13 cánh, hoa
cúc tây có 21 cánh, hoa cúc thường có 34, hoặc 55 hoặc 89 cánh. Các số
Fibonacci cũng xuất hiện trong các bông hoa hướng duơng. Những nụ nhỏ sẽ kết
thành hạt ở đầu bông hoa hướng dương được xếp thành hai tập các đường xoắn ốc:
một tập cuộn theo chiều kim đồng hộ, còn tập kia cuộn ngược theo chiều kim đồng
hồ. Số các đường xoắn ốc hướng thuận chiều kim đồng hồ thường là 34 còn ngược
chiều kim đồng hồ là 55. Đôi khi các số này là 55 và 89, và thậm chí là 89 và
144. Tất ca các số này đều là các số Fibonacci kết tiếp nhau( tỷ số của chúng
tiến tới tỷ số vàng).
Ứng dụng trên biểu đồ.
Thông
thường 1 cổ phiếu lên hoặc xuống sẽ dừng lại tại những mức hỗ trợ hoặc kháng
cự 0%, 23.6%, 38.2, 50%, 61.8%, 100%...
Mức kháng cự là mức kỳ vọng giá cổ phiếu sẽ đặt đến. Ví dụ giá cổ phiếu
STB hiện tại đang là 30 thì mức kháng cự kế tiếp cổ phiếu tăng là 35, nếu vượt
qua mức 35 thì mức kháng cự kế tiếp là 40...
Mực hỗ trợ là mức là kỳ vọng giá cổ phiếu sẽ không giảm qua mức này.
Ví dụ giá cổ phiếu STB hiện tại là 30 thì mức hỗ trợ để cổ phiếu giảm dừng lại
ở 25.
Xác định mức độ hỗ trợ/kháng cự CÁC MỨC GIẢM %
sau khi đã đạt mức ĐỈNH.
Ví
dụ cổ phiếu STB sau khi đã xác định Đáy ngày 20/02/2009 (giá 10.4) Đỉnh
12/06/2009 (giá 32.6) dãy fibonacci sẽ xuất hiện những % hỗ trợ và kháng cự
tương ứng với Đáy và Đỉnh đã chọn.
Xác định mức độ hỗ trợ/kháng cự CÁC MỨC TĂNG %
sau khi đã đạt mức ĐÁY.
Ví
dụ cổ phiếu ITA sau khi đã xác định Đỉnh 100%( giá 53) và Đáy ngày 0% (giá 9.6)
dãy fibonacci sẽ xuất hiện những đường % hỗ trợ và kháng cự tương ứng với Đáy
và Đỉnh đã chọn.
ITA
sau khi đã vượt mức kháng cự 61.8% (giá 36.4) thì mức kỳ vọng kết tiếp sẽ vượt
đến mức kháng cự 100%.
Kết Luận:
RSI CHỈ SỐ
SỨC MẠNH TƯƠNG ĐỐI RELATIVE STRENGTH INDEX
·
Biểu
đồ chỉ số RSI (Relative Strength Indicator) - Sức mạnh tương đối
·
Chỉ
số RSI dùng để đo sức mạnh hoặc độ yếu tương đối của một loại chứng khoán khi
nó tự so sánh với chính nó trong một khoảng thời gian nhất định (thường dùng là
14 ngày). RSI là một công cụ đo dao động (oscillator) có biên trên và biên dưới
dao động 0-100 (Phần dưới cùng của biểu đồ trên: RSI – 14 ngày). Đường trung
bình nằm giữa màu xám 50. Biểu đồ RSI có các đường chính đáng chú ý sau:
·
Đường
50 ở giữa, là một dấu hiệu nhận biết chứng khoán sắp tăng giá hay giảm giá. Nếu
đường RSI tăng vượt qua đường này, đó là dấu hiệu giá của loại chứng khoán đó
có kỳ vọng tăng giá (Bullish). Ngược lại, nếu đường RSI giảm xuống dưới đường
này, đó là dấu hiệu giá của loại chứng khoán đó có kỳ vọng giảm giá (Bearish).
·
Ở
đây ta nhấn mạnh là kỳ vọng vì biểu đồ thể hiện quá khứ của cổ phiếu. Khi xác
lập xu thế mới sẽ làm cho các nhà đầu tư tin tưởng tăng (hoặc giảm).
·
Đường
70 phía trên được coi là ngưỡng lỗ mua (overbought) nghĩa là đã mua lỗ quá
nhiều so với mức cân bằng của thị trường. Khi đó, nhà đầu tư sẽ bán bớt ra để
trở về mức cân bằng làm cho giá giảm xuống). Thường khi đường RSI rớt xuống
dưới ngưỡng 70, đó là dấu hiệu giá chứng khoán đó sắp giảm.
·
Đường
30 ở dưới được coi là ngưỡng lỗ bán (oversold) nghĩa là lượng bán ra quá nhiều
làm giá giảm xuống thấp hơn so với giá cân bằng. Nhà đàu tư sẽ mua thêm để đẩy
giá lên). Thường khi đường RSI từ dưới lên và vượt ngưỡng 30, đó là dấu hiệu
giá chứng khoán đó sắp tăng.
·
Nguyên
tắc mở giao dịch :
BUY khi đường RSI cắt xuống dưới 30, hình thành đáy và sau đó quay lên cắt qua
30. Ngược lại, SELL khi đường RSI cắt lên trên 70, tạo thành đỉnh và sau đó
quay xuống cắt qua 70.
·
Ưu
điểm : RSI
là một công cụ rất tốt để dựa vào đó bạn có thể xác nhận tín hiệu mở giao dịch
của bất kỳ hệ thống giao dịch đơn giản hay phức tạp. RSI cho bạn tín hiệu mở
giao dịch tốt nhưng cơ hội giao dịch không thường xuyên.
·
Khuyết
điểm : cần
phải quan sát theo dõi, vẫn có tín hiệu lỗi. Đề nghị sử dụng cùng các công cụ
khác.
·
RSI
vượt xuống 50 xuất hiện mô hình Đỉnh Cầu Vai
·
Tín
hiệu bán khi RSI vượt xuống 50
·
Tín
hiệu mua khi RSI vượt lên 50
MACD - CHỈ
SỐ BIẾN ĐỘNG CHÊNH LỆCH HỘI TỤ TRUNG BÌNH TRƯỢT
MACD
là chỉ báo thị trường rất phổ biến khi sử dụng công cụ phân tích kỹ thuật. Nó
được cấu thành bởi 3 thành phần chính.
Chỉ
báo MACD là công cụ rất có hiệu quả và nhiều tác dụng. Có 3 cách chính khi sử
dụng chỉ báo MACD:
Sự
giao cắt của đường trung bình giá.
-
Biểu đồ MACD
-
Sự phân kỳ của MACD
MACD và sự giao cắt của đường trung bình giá (MA)
Phương
pháp sử dụng đầu tiên này là sự nghiên cứu hiện tượng giao cắt của các đường
trung bình giá.
-
Khi đường trung bình ngắn hạn EMA (12) cắt và nằm trên đường trung bình dài hạn
EMA (26), điều này tương đương với đường MACD cắt và nằm trên đường zero.
-
Khi đường trung bình ngắn hạn EMA (12) cắt và nằm phía dưới đường trung bình
dài hạn EMA (26), điều này tương đương với MACD cắt và nằm phía dưới đường
zero.
Tín hiệu bán: Khi MACD cắt và nằm phía dưới đường zero thì tín hiệu bán
xuất hiện
Tín hiệu mua: Xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía trên đường
tín hiệu của MACD.
Tín hiệu bán: xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía dưới đường
tín hiệu của MACD.
Biểu đồ MACD
Biểu
đồ MACD là 1 dạng khá đơn giản, nó nói lên sự khác biệt giữa đường MACD và
đường tín hiệu của MACD
Có
2 điều quan trọng nằm trong biểu đồ MACD:
- Hội
tụ: Biểu đồ MACD co rút lại, điều này mang ý nghĩa là có sự thay đổi
hướng đi của đường giá đang chậm lại. Đường MACD có khuynh hướng tiến gần với
đường tín hiệu của MACD.
- Phân
kỳ: Biểu đồ MACD giãn ra hoặc là tăng độ cao(không kể chiều âm hay
dương), điều này mang ý nghĩa làm cho hướng đi của xu hướng giá tăng lên nhanh
và chắc chắn.
Khi
đường giá di chuyển theo xu hướng giá một cách mạnh mẽ thì biểu đồ MACD sẽ tăng
độ cao. Khi biểu đồ MACD không tăng độ cao nữa hoặc nó bắt đầu co rút lại thì
thị trường lúc đó có khuynh hướng suy giảm nhẹ và cảnh báo có nhiều khả năng
đường giá sẽ có đảo chiều trong thời gian sắp tới.
Tín hiệu mua: Khi biểu đồ MACD nằm dưới đường zero và bắt đầu hội tụ
về hướng đường zero.
Tín hiệu bán: Khi biểu đồ MACD nằm trên đường zero và bắt đầu hội tụ
về hướng đường zero.
Directional
Movement Index (DMI) and Average Directional Movement Index (ADX)
Directional Movement Index (DMI)
DMI
là 1 phần của chỉ báo ADX. DMI bao gồm 2 đường DI+ và DI-, hiểu một cách đơn
giản là DI+ cho tín hiệu mua và DI- cho tín hiệu bán.
Tín hiệu mua: Khi DI+ cắt và đi lên phía trên DI-
Tín hiệu bán: Khi DI- cắt và đi xuống phía dưới DI+
Lưu Ý: Khi sử dụng sự giao cắt của DMI để nhận biết tín hiệu mua
hoặc bán thì những tín hiệu này thường hay bị sai lệch. Để khắc phục chúng ta
sẽ dùng chỉ báo ADX để xác nhận lại sự giao cắt của DMI. Chỉ báo ADX (Average
Directional Movement Index) là một phần quan trọng không thể thiếu khi sử dụng
chỉ báo DMI.
Average Directional Movement Index (ADX)
ADX
là kỹ thuật chỉ báo thể hiện thị trường đang trong trạng thái có xu hướng hay
không có xu hướng. Khi ADX đã xác nhạn có xu hướng thì kỹ thuật chỉ báo DMI sẽ
chỉ ra những tín hiệu mua bán chắc chắn hơn.
Một
cách hiểu nào đó chúng ta có thể cho rằng mục đích chính của ADX là để xác định
rõ xu hướng hiện tại của đường giá. Nếu xác định rõ được xu hướng thị trường sẽ
giúp ích cho chúng ta rất lớn, vì nó sẽ chỉ dẫn và giúp cho nhà đầu tư sử dụng
những kỹ thuật chỉ báo khác để phân tích.
ADX
rất phổ biến vì nó xác định được trạng thái hiện tại của thị trường là có xu
hướng hay không có xu hướng. Điều này giúp cho nhà đầu tư tránh xa những điểm
yếu của các chỉ báo cũng như những cái bẫy (trap) của thị trường.
Điều
đầu tiên và luôn luôn phải nhớ khi sử dụng ADX là chú ý hướng đi của đường giá.
Khi ADX dao động tăng hay giảm không có nghĩa là xác định được hướng chuyển
động tiếp theo của đường giá.
Diễn giải ADX:
- Chỉ báo Stochastic (Stoc) là
chỉ số căn bản cho khuynh hướng của thị trường. Trong giai đọan tăng giá (bull
market) thì chỉ số này đi lên, còn trong giai đọan giảm giá (bear market) thì
chỉ số này đi xuống.
- Chỉ số này được cấu tạo bởi 2
đường: %K , %D và được tính tóan như sau:
%K = (giá hiện hành - giá thấp
n) / (giá cao n - giá thấp n)
Với n là số phiên giao dịch
trong giai đọan đang xét (mặc định thường dùng là 14)
%D = (%K x + %K x-1 + %K x-2) /
3
Là trung bình 3 phiên của %K,
trong đó x là số phiên hiện hành.
- Có 2 dạng stochastic: đường
nhanh (fast stochastic), đường chậm (low stochastic). Đường nhanh ảnh hưởng cực
kỳ đến giá trong khi đó đường chậm chỉ đơn thuần là kết quả cân bằng của đường
nhanh.
- Chì số stochastich được giới
hạn từ 0 đến 100, nhưng phần lớn nó nằm quanh vị trí 20-80, nó phản ảnh các
vùng quá bán (oversold) và vùng quá mua (oversbought). Đôi khi nó nằm ở những
vùng 25-75 là những vùng hết sức nguy hiểm để thực hiện mua và bán vì ở tại
những vùng này thường không có nhiều thông tin hỗ trợ.
Cách sử dụng chỉ báo Stochastic:
đây là 1 trong những chỉ số dùng để nhận biết sự đảo chiều của thị trường.
Một tín hiệu mạnh xảy ra khi cả
3 tín hiệu trên đều cho ra 1 tín hiệu mua hay bán. Đôi khi tại những lúc thị
trường đạt đỉnh thì stochastic cũng nằm ở vị trí cao nhất và khi thị trường ở
đáy thì stochastic cũng ở vị trí thấp nhất. Đây cũng là dấu hiệu nhận biết để
thóat ra hay nhảy vào của những nhà đầu tư.
Chỉ Số đo dòng tiền MFI - money
flow Index là chỉ báo kỹ thuật dùng để đo sức mạnh của dòng tiền ra vào của một
chứng khoán trong giai đoạn phân tích. Nói nôm na là cổ phiếu (chứng khoán đó
còn được ưu thích trong giai đoạn phân tích hay không) . MFI liên quan chặt chẻ
với RSI (relative strength index) nhưng RSI liên quan đế với giá chứng khoán,
còn MFI liên quan đến khối lượng (theo cách tính).
MFI cũng chỉ ra sự phân kỳ giữa
chỉ số và biến đổi về giá. Khi giá có xu hướng đi lên cao và MFI có xu hướng đi
xuống thấp (hoặc ngược lại), thì khả năng đảo chiều có thể xảy ra.
Là chỉ số giao động được sáng
lập bởi ông Donald Lambert. Nó giao động giữa 2 vùng quá mua (overbought) và
quá bán (oversold). Điều kiện làm việc tốt nhất của chỉ số này là thị trường
trong trạng thái ít biến động, ảm đạm (sideways market), nó không làm việc tốt
khi thị trường đang trong 1 xu hướng (trending market). Bởi thế nó phải được sử
dụng kết hợp với các chỉ số khác, tốt nhất là dùng kết hợp với các chỉ số định
hướng Directional Movement Index (DMI). Có thể lọai trừ những sai lầm khi bạn
nhận được tín hiệu bán ở vùng quá mua (overbought) trong xu thế tăng giá (bull
market).
Công thức tính tóan:
1. Calculate the average price
of the period
i. Average Px = (high + Low +
Close) / 3
2. Calculate the Moving Average
over ''''n'''' periods
i. MA = (Close 1 + Close 2 +
Close 3 = ... + Close n) / n
3. Calculate the mean deviation
over ''''n'''' periods
i. Mean Deviation = ([MA last -
Avg Px 1 [+] MA last - Avg Px 2 [ + ...+ ] MA last - Avg Px n]) / n
4. CCI = (Average Price - MA) /
(0.015* Mean Deviation)
Lambert đề xuất sử dụng về 1/3
chu kỳ thông thường của thị trường nó giống như là 1 giới hạn tốt nhất cho CCI.
Nếu chu kỳ bình thường của thị trường là 90 ngày thì nên sử dụng thông số n=30
ngày và nên sử dụng đồ thị ngày.
CCI về bản chất là đo lường
khỏang cách bao xa từ đường giá đến đường trung bình của giá (Moving Average)
và đo chúng di chuyển nhanh như thế nào. Nếu đường giá nằm bên phải đường MA
(Moving Average) thì giá trị của CCI sẽ là 0. Hằng số (0.015) bị hạn chế khỏang
80% thời gian nằm trong khỏang từ -100 đến +100.
Cách sử dụng:
Có nhiều chỉ dẫn để sử dụng chỉ
số này nhưng có 2 cách thường dùng nhất là:
1. Tín hiệu mua và bán thật sự:
Khi chỉ số CCI trên +100 và thị trường là quá mua (overbought) thì đó là cơ hội
bán của chúng ta. Và khi thị trường là quá bán (oversold) với chỉ số CCI dưới
-100 thì đó là cơ hội mua của chúng ta.
2. Phân kỳ (Divergence
Indicator): Nếu đường giá tăng mà chỉ số CCI giảm thì giá sẽ thường đổi chiều
sau đó.
Nó thật sự là chỉ số mạnh khi
được kết hợp với các chỉ số về đường hướng (directional indicator). Nó sẽ cho
tín hiệu sai khi xu hướng của thị trường chống lại cái tín hiệu đó. Ngược lại
nó rất chính xác khi có tín hiệu mua trong thị trường tăng (bull market) và tín
hiệu bán khi thị trường giảm (bear market).
Có rất nhiều cách sử dụng chỉ
báo này. Nó có thể sử dụng để xác nhận điểm thóat (breakout) trong phạm vi gần
của xu hướng. Nó còn được sử dụng để đo gia tốc của thị trường.
Williams %R
Chỉ
số Williams %R là một chỉ số biến động giá. Chỉ số này tương tự như Chỉ số Tỷ
lệ Thay đổi ROC và chỉ số Sức mạnh Tương đối RSI. Chỉ số này bao gồm một đường
đơn dịch chuyển lên xuống trong biên độ 0 và 100.
Chỉ
số Williams %R so sánh giá đóng cửa cửa phiên giao dịch gần đây nhất với khoảng
giá giao dịch trong quá khứ:
Bất
cứ lúc nào đường Williams %R mà nằm trên 80 hoặc dưới 20 thì giá cổ phiếu đều
được xem là biến động thái quá (“over-extended”). Khi quý vị quan sát thấy tình
huống này, thì có khả năng cao giá cổ phiếu sẽ đảo chiều.
Chỉ
số Williams %R tạo ra các tín hiệu Mua và Bán khi nó di chuyển ra khỏi vùng
biến động thái quá (trên 80 hoặc dưới 20) và quay trở lại vùng giữa của khoảng
giao động – như quý vị có thể quan sát với trường hợp của Home Depot (HD) trong
biểu đồ dưới đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét